Địa lý Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt


Bản đồ địa hình Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực đông nam bán đảo Đông Dương. Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia phía tây. Hình thể nước Việt Nam có hình chữ S, khoảng cách từ bắc tới nam (theo đường chim bay) là 1.648 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây là 50 km. Đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thuỷ, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đông.[1]





Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với những vùng đất thấp, đồi núi, nhiều cao nguyên với những cánh rừng rậm. Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp chiếm chưa tới 20%. Đất nước bị chia thành miền núi, vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; và dãy Trường Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng duyên hải miền trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam.


Đồng bằng ven biển[sửa | sửa mã nguồn]


Những vùng đồng bằng thấp và phẳng ven biển trải dài từ phía nam đồng bằng sông Hồng tới châu thổ sông Cửu Long. Ở phía đất liền, dãy Trường Sơn mọc dựng đứng trên bờ biển, các mũi của nó ở nhiều chỗ chạy xiên ra biển. Nói chung mảnh đất ven biển khá màu mỡ và được canh tác dày đặc.


Đồng bằng sông Cửu Long[sửa | sửa mã nguồn]


Bài chi tiết: Đồng bằng sông Cửu Long

Sông Mê Kông dài 4.220 km, là một trong 12 con sông lớn nhất trên thế giới. Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, nó chảy qua vùng Tây Tạng và Vân Nam ở Trung Quốc, tạo nên biên giới giữa Lào và Myanma cũng như giữa Lào và Thái Lan, sau khi chảy qua Phnôm Pênh, nó chia thành hai nhánh là Tiền Giang và Hậu Giang rồi tiếp tục chảy qua Campuchia và vùng châu thổ sông Cửu Long trước khi đổ ra biển qua chín đường nhánh, được gọi là Cửu Long (chín con rồng). Con sông mang nhiều phù sa và tàu bè có thể đi từ ngoài biển qua trên con sông nông này đến tận Kompong Chàm ở Campuchia. Một nhánh phụ từ hồ Tonlé Sap chảy hợp vào với con sông ở Phnôm Pênh, đây là một hồ nước ngọt nông, đóng vai trò một hồ chứa tự nhiên làm ổn định dòng chảy ở hạ lưu sông Cửu Long. Khi con sông ở thời kỳ lũ, vùng đồng bằng cửa sông không thể thoát kịp lượng nước khổng lồ của nó. Nước lũ chảy ngược vào hồ Tonlé Sap, làm cho hồ ngập tràn và mở rộng ra đến 10.000 km vuông. Khi nước lũ rút đi, nước từ hồ lại tiếp tục chảy ra biển. Hiệu ứng này làm giảm đáng kể sự nguy hiểm của những đợt lũ lụt nguy hại ở đồng bằng Sông Cửu Long, nơi lũ lụt khiến cho những cánh đồng lúa hàng năm bị chìm ngập sâu từ một đến hai mét nước.


Đồng bằng sông Hồng[sửa | sửa mã nguồn]


Sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam ở Trung Quốc, dài khoảng 1.200 km. Hai hợp lưu là sông Lô và sông Đà cùng góp phần vào lưu lượng hàng năm trung bình lên tới 3000 mét khối mỗi giây. Con số này có thể tăng lên gấp 60 lần vào mùa mưa. Vùng châu thổ dựa lưng vào vùng trung du và thượng du núi non. Cao độ của vùng châu thổ chỉ khoảng hơn ba mét so với mực nước biển, thậm chí đa phần chỉ là một mét hay còn thấp hơn nữa. Vì là đất thấp nên châu thổ hay bị lũ lụt; ở một số nơi mức nước lụt đã từng dâng ngập làng mạc dưới 14 mét nước. Qua nhiều thế kỷ, việc phòng lụt đã trở thành một công việc gắn liền với văn hoá và kinh tế của vùng. Hệ thống đê điều và kênh mương rộng lớn đã được xây dựng để chứa nước sông Hồng và để tưới tiêu cho vùng châu thổ giàu lúa gạo này cùng để tháo nước khi bị lụt. Hệ thống này sau nhiều thế hệ đã góp phần duy trì mật độ dân số cao ở đồng bằng sông Hồng và làm tăng gấp đôi diện tích có thể canh tác lúa nước ở đây.


Trung du và miền núi[sửa | sửa mã nguồn]


Phía Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Việt Nam là vùng miền núi và trung du bao gồm nhiều dãy núi, khối núi, cao nguyên và các đồi. Đây là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân tộc thiểu số. Dãy núi lớn ở đây là Hoàng Liên Sơn ở miền Bắc và Trường Sơn ở miền Trung. Nhiều ngọn núi có độ cao trên 2.000 mét, trong đó Phan Xi Păng là ngọn cao nhất, lên tới 3.143 mét. Ở vùng Đông Bắc và miền Trung, nhiều dãy núi chạy ra biển, tạo thành những cảnh quan tự nhiên tráng lệ, hùng vĩ.

Đồng bằng sông Hồng là một vùng hình tam giác, diện tích 15.000 km vuông, hơi nhỏ hơn nhưng lại đông dân hơn đồng bằng sông Cửu Long. Thời trước nó là một vịnh nhỏ của vịnh Bắc Bộ, dần dần nó được bồi đắp nhờ khối lượng phù sa lắng đọng khổng lồ của các con sông, thuộc hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, qua hàng nghìn năm khiến mỗi năm lấn thêm ra biển khoảng một trăm mét. Đây là nơi sinh sống của tổ tiên người Việt. Trước năm 1975, đồng bằng sông Hồng chiếm 70% sản lượng nông nghiệp và 80% sản lượng công nghiệp miền bắc Việt Nam.




Đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích 40.000 km vuông, là một đồng bằng thấp. Mọi vị trí trên đồng bằng này không cao hơn ba mét so với mực nước biển. Đồng bằng bị chia cắt dọc ngang bởi nhiều con kênh và các con sông. Con sông mang nặng phù sa trên mọi nhánh chằng chịt của nó làm cho đồng bằng hàng năm tiến thêm về phía biển 60 đến 80 mét. Các con sông bồi đắp nên đồng bằng này thuộc hệ thống sông Cửu Long và hệ thống sông Đồng Nai. Một nguồn thông tin chính thức của Việt Nam ước tính rằng khối lượng phù sa lắng động hàng năm là khoảng một tỷ mét khối, hay gần gấp 13 lần khối lượng phù sa lắng đọng của sông Hồng. Khoảng 10.000 km vuông đồng bằng hiện được dùng cho canh tác lúa gạo, biến đây trở thành một trong những vùng sản xuất lúa gạo lớn trên thế giới. Mũi phía nam, được gọi là mũi Cà Mau, hay mũi Bãi Bung, là nơi có mật độ rừng rậm cao và các đầm lầy đước.



Lãnh thổ Việt Nam phần trên đất liền gồm ba miền tự nhiên (có những đặc điểm địa hình, động thực vật, khí hậu chung trong miền), đó là: Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ; Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ; Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.


Đặc điểm cơ bản của vùng này là: có quan hệ mật thiết với Hoa Nam (Trung Quốc) về mặt địa chất - kiến tạo và chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc.

Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp với độ cao trung bình 600m. Hướng vòng cung của các dãy núi và các thung lũng sông là nét nổi bật trong cấu trúc sơn văn của miền. Địa hình karst khá phổ biến. Hướng nghiêng chung là tây bắc - đông nam với các bề mặt địa hình thấp dần ra biển và sự hợp lưu của các dòng sông lớn khiến cho đồng bằng mở rộng.

Địa hình bờ biển đa dạng: nơi thấp phẳng, nơi nhiều vịnh, đảo, quần đảo. Vùng biển nông, tuy nhiên vẫn có vịnh nước sâu thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.

Tài nguyên khoáng sản: giàu than, sắt, thiếc, vonfram, chì, bạc, kẽm, vật liệu xây dựng,... Vùng thềm lục địa Bắc Bộ có bể dầu khí sông Hồng.

Sự xâm nhập mạnh của gió mùa Đông Bắc tạo nên một mùa đông lạnh. Đặc điểm này được thể hiện ở sự hạ thấp đai cao cận nhiệt đới (có nhiều loài cây phương Bắc) và sự thay đổi cảnh qua thiên nhiên theo mùa.

Sự bất thường của nhịp điệu mùa khí hậu, của dòng chảy sông ngòi và tính bất ổn cao của thời tiết là những trở ngại lớn của vùng.


  • Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là phần phía Nam của sông Hồng tới phía Bắc dãy núi Bạch Mã. Miền này cũng chia làm ba khu, gồm khu Hoàng Liên Sơn, khu Tây Bắc và khu Hòa Bình-Bắc Trung Bộ.

  • Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ là phần phía Nam dãy núi Bạch Mã.

Việt Nam được chia thành 3 miền và 8 vùng:




Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi khi miền nam nằm trong vùng nhiệt đới xavan. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối trung bình 84-100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong mùa đông hay mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường thổi từ phía đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luôn theo các thung lũng sông giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số các vùng việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với mùa mưa hay mùa hè. Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến tháng 10, không khí nóng từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía bắc, khiến không khí ẩm từ biển tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.

Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 đến 300 xentimét, và ở một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng mưa đổ xuống vào mùa hè. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao động nhiệt độ từ mức thấp nhất là 5°C từ tháng 12 đến tháng 1, tháng lạnh nhất, cho tới hơn 37 °C vào tháng 7, tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa phía nam, nơi mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ, thường trong khoảng 21-28 °C.



Các hồ này nước ít luân chuyển, các hồ đầm tự nhiên xuất hiện ở vùng núi thường là dấu vết còn lại của núi lửa, động đất hay những nguyên nhân khác. Phần lớn các hồ đầm tự nhiên nước không chảy nhưng cũng có hồ nước chảy nhẹ như hồ Ba Bể.
Các lợi đầm phá nước mặn: Các đầm phá nước mặm có rất nhiều ở vùng ven biển Việt Nam, và đang được khai thác triệt để.
Hồ và kho nước nhân tạo
Tính đến năm 2003 Việt Nam có khoảng 3.500 hồ chứa có dung tích lớn hơn 0.2 triệu m3. Chỉ có 1.976 hồ có dung tích lớn hơn 1 triệu m3, chiếm 55,9% với tổng dung tích 24.8 tỷ m3. Trong số hồ trên có 10 hồ do ngành điện quản lý với tổng dung tích 19 tỷ m3. Có 44 tỉnh và thành phố trong 63 tỉnh thành Việt Nam có hồ chứa. Tỉnh có nhiều hồ nhất là Nghệ An (249 hồ), Hà Tĩnh (166 hồ), Thanh Hóa (123 hồ), Phú Thọ (118 hồ), Đắk Lăk (116 hồ) và Bình Định (108 hồ).

Trong số 1957 hồ cấp nước tưới do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Việt Nam) quản lý phân theo dung tích có: 79 hồ có dung tích trên 10 triệu m3, 66 hồ có dung tích từ 5 đến 10 triệu m3, 442 hồ có dung tích từ 1 đến 5 triệu m3, 1.370 hồ có dung tích từ 1 đến 2 triệu m3. Tổng dung tích các hồ chứa này là 5.8 tỷ m3 nước tưới cho 505.162 ha.

Hiện nay có tới 2.360 con sông dài trên 10 km và 93% là các con sông nhỏ, ngắn và dốc.



Các số liệu chính[sửa | sửa mã nguồn]


Diện tích

  • Tổng: 331.212 km² Đất liền: khoảng 324.480 km²

  • Nội thuỷ: hơn 4.200 km²
Chiều dài đường biên giới trên đất liền

  • Tổng: 4.639 km

  • Biên giới với các nước: Trung Quốc (1.449,566 km), Lào (2.067 km), Campuchia (1.137 km)
Đường bờ biển

3.260 km (không tính các đảo)
Vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán

Độ cao

Biên giới với Lào, được quy định dựa trên cơ sở dân tộc, giữa những vị vua cai trị Việt Nam và Lào vào giữa thế kỷ XVII, nó đã được định nghĩa chính thức bằng một hiệp ước phân định ranh giới ký kết năm 1977 và được phê chuẩn năm 1986. Biên giới với Campuchia, được xác định từ thời người Pháp sáp nhập vùng phía tây đồng bằng sông Cửu Long năm 1867, hiện hầu như vẫn không thay đổi nhiều. Theo Việt Nam, một số vấn đề biên giới còn tồn tại cuối cùng đã được giải quyết vào giai đoạn 1982-1985. Biên giới trên đất liền và trên biển với Trung Quốc, được phác ra theo những hiệp ước Pháp-Thanh năm 1887 và 1895, là "đường biên giới" mà Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã đồng ý tôn trọng nó vào năm 1957-1958. Tuy nhiên, tháng 2 năm 1979, tiếp sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, Việt Nam đã tuyên bố rằng từ năm 1957 trở về sau Trung Quốc đã gây ra nhiều vụ xung đột ở biên giới như một phần trong chính sách chống Việt Nam của họ và ý định thực hiện chủ nghĩa bành trướng ở Đông Nam Á. Trong số những sự vi phạm lãnh thổ được nêu ra có việc Trung Quốc chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và chiếm toàn bộ quần đảo vào ngày 19 tháng 1 năm 1974. Hiện Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này và hiện vấn đề vẫn chưa được giải quyết.

Tại quần đảo Trường Sa, ngoài Việt Nam thì còn 5 bên tuyên bố chủ quyền là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Philippines, Malaysia và Brunei.


Các điểm cực[sửa | sửa mã nguồn]


Điểm cực bắc

Điểm cực bắc trên đất liền của Việt Nam nằm ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tại toạ độ 23°23′33″B 105°19′24″Đ / 23,392505°B 105,32324°Đ / 23.392505; 105.323240.
Điểm cực nam

Điểm cực nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Rạch Tàu, huyện Ngọc Hiển (huyện Năm Căn cũ tính đến ngày 17 tháng 12 năm 1984), tỉnh Cà Mau tại toạ độ 8°33′43″B 104°50′11″Đ / 8,562035°B 104,836335°Đ / 8.562035; 104.836335.
Điểm cực tây

Điểm cực tây trên đất liền của Việt Nam nằm ở A Pa Chải-Tá Miếu (thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên)[2][3] (ngã ba biên giới Việt-Trung-Lào) tại toạ độ 22°24′03″B 102°08′38″Đ / 22,400734°B 102,14394°Đ / 22.400734; 102.143940.
Điểm cực đông

Điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa tại toạ độ 12°38′54″B 109°27′42″Đ / 12,6483756°B 109,4616339°Đ / 12.6483756; 109.4616339 (không nên nhầm với mũi Điện ở Phú Yên).

Nếu tính cả quần đảo Trường Sa thì điểm cực đông của Việt Nam (hiện đang kiểm soát) nằm tại đá Tiên Nữ thuộc quần đảo này[4] tại toạ độ 8°51′18″B 114°39′18″Đ / 8,855°B 114,655°Đ / 8.855; 114.655.



Tài nguyên thiên nhiên

phốt phát, than đá, măng gan, bô xít, chrômát, ngoài biển: khoáng sản dầu mỏ và khí tự nhiên, rừng, thuỷ năng (thủy điện).
Sử dụng đất

  • Đất canh tác: 17%

  • Mùa màng cố định: 4%

  • Đồng cỏ cố định: 1%

  • Rừng và vùng rừng: 30%

  • Khác: 48% (ước tính năm 1993)
Đất được tưới tiêu

18.600 km² (ước tính năm 1993)

Thiên tai

  • Bão nhiệt đới xảy ra tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, xảy ra chủ yếu ở khu vực miền Bắc và Trung với lũ lụt trên diện rộng.
Môi trường

  • Khai thác gỗ và đốt rừng làm rẫy góp phần vào sự phá rừng và xói mòn đất; ô nhiễm nước và đánh bắt cá quá mức đe doạ cuộc sống sinh vật biển; ô nhiễm nước ngầm làm giảm nguồn cung nước sạch; tăng công nghiệp hoá đô thị và di cư làm suy giảm nhanh chóng môi trường ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

  • Việt Nam là thành viên của: Công ước về Đa dạng sinh học, Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về thay đổi khí hậu, Công ước Chống sa mạc hoá, Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, Công ước Viên về bảo vệ tầng ozon, Công ước Quốc tế về Phòng chống ô nhiễm từ tàu biển (MARPOL 73/78), Công ước Ramsar về đất ngập nước.

  • Việt Nam đã ký nhưng chưa phê chuẩn: Nghị định thư Kyōto về biến đổi khí hậu, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia Việt Nam được thực hiện định kỳ 5 năm một lần, báo cáo gần đây nhất là năm 2010. Giữa các năm đó là những báo cáo môi trường chuyên đề.[5] Theo đó, các vấn đề môi trường nổi cộm là ô nhiễm chất hữu cơ trong nước mặt của các lưu vực sông có nhiều khu công nghiệp và đô thị đông đúc, hàm lượng chất hữu cơ và coliform chảy qua các khu vực này cao hơn tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam 2-3 lần;[6] Ô nhiễm nông nghiệp do sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật quá mức;[7] Đa dạng sinh học suy giảm nghiêm trọng, 80% rạn san hô nằm trong tình trạng xấu, diện tích thảm cỏ biển suy giảm 40-60% so với thời kỳ trước năm 1990.[7] Các vấn đề về an ninh môi trường của Việt Nam chưa được đánh giá như an ninh nguồn nước, ô nhiễm xuyên biên giới chưa được kiểm soát, các loài ngoại lai xâm lấn và các loài biến đổi gen xâm lấn.[8]


Đường cơ sở biển của Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]


Đường cơ sở của Việt Nam gồm có 11 đoạn, bắt đầu từ vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia, đi qua quần đảo Thổ Chu, Hòn Khoai, Côn Đảo, Đảo Phú Quý, mũi Đôi, mũi Đại Lãnh, hòn Ông Căn, đảo Lý Sơn, đảo Cồn Cỏ.[cần dẫn nguồn]







0 comments: