Hải chiến Tsushima – Wikipedia tiếng Việt


Hải chiến Tsushima (chữ Hán: 對馬海戰, tên Hán-Việt là Đối Mã hải chiến, tiếng Nga: Цусимское сражение) là một trận hải chiến giữa hạm đội của Đế quốc Nga và hạm đội của Đế quốc Nhật Bản diễn ra tại eo biển Tsushima trong Chiến tranh Nga-Nhật ngày 27-28 tháng 5 năm 1905. Với chiến thắng vẻ vang này, Hải quân Nhật Bản được xem là đã làm nên một trong những thắng lợi hủy diệt trên biển lớn nhất trong suốt bề dày lịch sử nhân loại.[1] Đây cũng là trận hải chiến mang tính quyết định duy nhất bằng hạm đội tàu thép hiện đại trong lịch sử hải quân, cũng như là trận hải chiến đầu tiên mà điện báo không dây (radio) đóng vai trò quan trọng then chốt.

Trong trận hải chiến, Hạm đội Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Tōgō Heihachirō tiêu diệt hai phần ba hạm đội Nga dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Zinovy Rozhestvensky. Theo sách Theodore Rex (ISBN 0-394-55509-0), sử gia Edmund Morris gọi nó là trận hải chiến lớn nhất kể từ sau trận Trafalgar. Nó là trận hải chiến lớn nhất thời kỳ chiến hạm tiền-dreadnought.

Trận chiến kết thúc với thắng lợi to lớn của hạm đội Nhật, buộc Nga phải ký Hiệp định Portsmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á và khẳng định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á.

Được xem là một thắng lợi quyết định và toàn diện nhất trong quân sử trên biển[1], hải chiến Tsushima là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử khi các thiết giáp hạm đóng vai trò quyết định kết cục trận đánh. Hơn thế nữa, phải kể đến hạm đội Nga của Đô đốc Rozhestvensky khi buộc phải thực hiện một cuộc hải trình kéo dài lên đến 18.000 hải lý (chừng 33.000 km) để đến được đích là vùng Viễn Đông vì Anh, đồng minh của Nhật không cho quân Nga đi qua kênh đào Suez.

Trước khi chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, các cường quốc đã cho đóng tàu chiến với đủ loại pháo với các cỡ nòng khác nhau, chủ yếu là 150mm (6-inch), 203mm (8-inch), 254mm (10-inch) và 305mm (12-inch), với dự kiến là các chiến hạm này sẽ đánh giáp lá cà trong đội hình khép kín để quyết định chiến trường. Kinh nghiệm chiến trường cho thấy các cỗ trọng pháo với tầm bắn xa có lợi thế hơn, được ưa chuộng trong các trận hải chiến hơn là các khẩu đội pháo gồm nhiều cỡ nòng hỗn hợp. Ngay từ năm 1904, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã cho đóng tàu Satsuma (hạ thủy ngay trước trận hải chiến Tsushima, ngày 15 tháng 5 năm 1905), chiếc tàu chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng trọng pháo. Hải quân Hoàng gia của Đế quốc Anh nhanh chóng bắt nhịp, khởi công đóng tàu chiến HMS Dreadnought tháng 10 năm 1905, và trở thành tàu chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng đại pháo 305mm. Tàu HMS Dreadnought được hạ thủy vào năm 1906, đánh dấu mốc thời kỳ tiền-dreadnought trước 1906 và dreadnought từ 1906 trở đi.





Vào năm 1894-1895, chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất kết thúc với thắng lợi của Nhật Bản, buộc triều đình Mãn Thanh phải chấp thuận nhượng lại Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên. Điều này gây hại cho chính sách xâm lược của Nga ở Mãn Châu, do đó Nga đã liên kết với Pháp và Đức để ép Nhật nhượng lại các quyền lợi này cho Nga. Điều này đã gây ra sự căm oán của người Nhật và nước Nhật sau đó đã bắt đầu 1 chương trình phát triển hải quân để chuẩn bị cho 1 cuộc chiến mới với Nga.

Năm 1902, Liên minh Hải quân Anh-Nhật được ký kết, Anh cam đoan nếu Nhật phải chiến đấu với 2 kẻ thù trở lên thì Anh quốc sẽ dùng các lực lượng của mình để giúp Nhật. Do đó khi chiến tranh nổ ra thì cả Pháp lẫn Đức đều không dám giúp Nga.

Sau hòa ước Bắc Kinh, Nga chiếm trọn Mãn Châu. Nhật yêu cầu Nga rút binh về, trả Mãn Châu cho nhà Thanh. Nga chống lại, chỉ đồng ý cho Nhật buôn bán ở Nam bộ Triều Tiên, còn Bắc bộ Triều Tiên và Mãn Châu, Phụng Thiên đều thuộc về Nga. Nhật tấn công ngay.


Chiến tranh ở vùng Viễn Đông[sửa | sửa mã nguồn]



Đô đốc Zinovi Petrovich Rozhdestvenski

Đô đốc Makarov và hạm đội của ông bị hạm Nhật đánh chìm ngày 13-4-1905

Ngày 8 tháng 2 năm 1904, các khu trục hạm của Hải quân Nhật bất ngờ tấn công Hạm đội Viễn Đông của Nga bỏ neo tại cảng Lữ Thuận, ba tàu chiến trong đó có hai chiến hạm và một tuần dương hạm bị hư hại trong trận đánh. Trong khi cuộc tiến công của Nhật làm cho cả nước Nga sững sờ thì các nước Anh-Mỹ đều tỏ ý khen ngợi sự táo bạo của ngưới Nhật. Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ. Mục tiêu đầu tiên của Nhật Bản là kiểm soát đường liên lạc và tiếp vận nối liền Nhật Bản với lục địa Á châu, để Nhật Bản có thể tiếp tục cuộc chiến tranh ở Mãn Châu. Để đạt được điều này, Nhật cần phải vô hiệu hóa sức mạnh hải quân Nga ở Viễn Đông. Ban đầu, hải quân Nga án binh bất động và không giao chiến với quân Nhật, quân Nhật có thể đổ bộ dễ dàng lên Triều Tiên mà không gặp phải bất kỳ sự chống cự nào. Sau những thất bại thảm hại trên bộ lẫn trên biển, Đô đốc Nga Stepan Osipovich Makarov được cử tới Viễn Đông đã thổi vào hạm đội Nga sức sống mới và họ đã có thể giành được một số thắng lợi nhỏ trước người Nhật. Tuy nhiên, trong 1 trận hải chiến, kỳ hạm của Đô đốc Makarov là chiến hạm Petropavlovsk trúng thủy lôi Nhật, đô đốc bị tử trận, người kế nhiệm đô đốc không dám thách thức Hạm đội Nhật Bản. Kết quả là hạm đội Nga bị giam chân ở cảng Lữ Thuận.

Tới tháng 5, quân Nhật đổ bộ lên bán đảo Liêu Đông và tới tháng 8 bắt đầu vây hãm hoàn toàn hạm đội Nga. Tháng 8, bộ chỉ huy Nga quyết định cho Đệ nhất Hải đội Thái Bình Dương xuất kích và liên hợp với Hải đội Vladivostok để đối phó với quân Nhật. Tuy nhiên, cả hai Hải đội của Hạm đội Thái Bình Dương này đều bị đánh tan trong các trận hải chiến tại biển Hoàng Hải và Uslan vào ngày 10 và 14 tháng 8 năm 1904. Những tàu chiến còn sống sót của hạm đội Nga, cuối cùng đều bị nhận chìm ở cảng Lữ Thuận.



Mở màn[sửa | sửa mã nguồn]


Hải quân Nga định lẩn trốn về Vladivostok, nên khi họ tiến về lãnh hải Nhật Bản, họ chuyển hướng khỏi các hải trình quen thuộc để tránh bị phát hiện. Tới đêm ngày 26 rạng ngày 27, Hạm đội Nga đã tiến đến eo biển Tsushima.

Đêm đó trời tối đen, nhiều sương, một làn sương mù bao trùm lên toàn eo biển, nên quân Nga có ưu thế ban đầu. Tuy nhiên đến 2:45 sáng, tàu tuần dương Shinano Maru của hải quân Nhật phát hiện ra ba ánh đèn của một tàu ở đằng xa chân trời, nên tiến lại gần để dò xét. Đó là các đèn hoa tiêu trên boong tàu cứu hộ Orel. Tới 4:30am, tàu Shinano Maru tiến lại gần con tàu kia, và nhận thấy con tàu này không mang hải pháo và có vẻ là một tàu phụ trợ. Tàu Orel nhầm chiếc Shinano Maru với một tàu khác của Nga nên không đánh động cho hạm đội, thay vào đó, nó đánh tín hiệu báo cho tàu Nhật biết là các tàu của Nga đang ở gần đó. Chiếc Shinano Maru sau đó phát hiện ra bóng dáng của mười chiếc tàu khác trong sương mù. Hạm đội Nga như vậy là đã bị phát hiện, và cơ hội để lẻn đến Vladivostok mà không bị phát giác đã mất.

Tới 4:55 sáng, Thuyền trưởng Narukawa của chiếc Shinano Maru đánh radio cho Đô đốc Togo ở Masampo rằng "Địch quân đang ở ô số 203". Tới 5 giờ, do bắt được tín hiệu radio mà phía Nga biết được họ đã bị phát hiện, và các tàu tuần dương trinh sát của Nhật đang tiến đến gần. Lúc 5:05 sáng, Đô đốc Togo nhận được tín hiệu và ngay lập tức chuẩn bị cho hạm đội của mình xuất kích.


Giao tranh bắt đầu[sửa | sửa mã nguồn]


6:34 phút sáng, trước khi xuất phát với Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Togo đánh điện về cho bộ trưởng hải quân ở Tokyo:




Cùng thời gian, toàn bộ hạm đội Nhật Bản triển khai trên biển, Đô đốc Togo từ kỳ hạm Mikasa chỉ huy trên bốn mươi tàu để nghênh chiến với quân Nga. Trong khi đó, các tàu tuần tiễu của Nhật vẫn bí mật theo dõi và liên tục cứ vài phút lại báo về đội hình và hướng di chuyển của hạm đội Nga. Trời đang có sương mù làm tầm nhìn bị sút giảm, và thời tiết rất xấu. Tới 1:40 chiều, cả hai hạm đội phát hiện đối phương và chuẩn bị tác chiến. Tới 1:55 phút, Đô đốc Togo hạ lệnh trương lá hiệu kỳ Z (Z-flag):




Khi nói câu này, ông đã vô tình lặp lại câu nói nổi tiếng của Đô đốc Nelson trước trận hải chiến Trafalgar năm 1805.


Trận đánh ban ngày[sửa | sửa mã nguồn]


Hạm đội Nga di chuyển từ hướng nam-tây nam về hướng bắc-đông bắc, hạm đội Nhật từ hướng tây về hướng đông bắc. Đô đốc Togo hạ lệnh cho hạm đội của mình lần lượt nối nhau quay ngoặt lại, sao cho các tàu chiến của ông có cùng hướng di chuyển với các tàu Nga, mặc dù làm như vậy có thể gây nguy hiểm cho chiếc tàu đang đổi hướng. Việc chuyển hướng hạm đội 180 độ hình chữ U cuối cùng cũng được thực hiện thành công. Hai đội tàu đối diện nhau tạo thành hai đường thẳng, được giữ ở khoảng cách 6200 mét và nã đạn pháo vào nhau.

Các trận hải chiến thường bắt đầu ở khoảng cách gần, nên Đô đốc Togo đã có thể ngay tức khắc chiếm lợi thế bằng cách gây bất ngờ. Tàu chiến Nhật có thể đạt đến tốc độ 16 hải lý, nhưng hạm đội Nga chỉ có thể di chuyển với tốc độ 8 hải lý, một phần vì vướng các tàu vận tải đi theo. Đô đốc Togo lợi dụng ưu thế vận tốc này, cộng với năng lực tuyệt vời của binh sĩ dưới quyền, có được do khổ công huấn luyện, cắt ngang hạm đội Nga theo "hình chữ T" hai lần để giáng nhiều tổn thất lên hạm đội Nga.

Tốc độ bắn của hải quân Nhật hết sức xuất sắc, lên đến hơn 2.000 phát trọng pháo trong một phút. Hơn thế nữa, quân Nhật dùng một loại thuốc đạn mới, bắn vào phần thân trên các chiến hạm Nga gây ra nhiều đám cháy trên các tàu bị bắn trúng. Sự chính xác của pháo thủ Nhật khiến cho quân Nga phải kinh ngạc.

Đô đốc Rozhestvensky bị loại khỏi vòng chiến do bị một mảnh pháo bắn vào xương sọ. Hạm đội Nga mất các chiến hạm Knyaz Suvorov, Oslyabya, Imperator Aleksander III and Borodino ngay trong ngày 27 tháng 5. Phía Nhật chỉ bị một số hư hại nhẹ, chủ yếu là ở tàu Mikasa. Tới tối, Chuẩn đô đốc Nebogatov nắm quyền chỉ huy hạm đội Nga.


Trận đánh đêm[sửa | sửa mã nguồn]


Khoảng 8 giờ tối, 37 tàu phóng lôi của Nhật và 21 khu trục hạm được tung vào trận. Các tàu khu trục đánh vào các tàu tiền phương, trong khi các tàu phóng lôi đánh vào mạn đông và nam của Hạm đội Nga. Các tàu Nhật tấn công mãnh liệt trong suốt 3 giờ không ngưng nghỉ, kết quả là trong đêm tối đã có những lần các tàu phóng lôi cỡ nhỏ của Nhật và chiến hạm Nga đâm vào nhau. Các tàu của Nga bị phân tán thành nhiều nhóm nhỏ, tìm cách đào thoát về hướng bắc. Tới 11 giờ đêm, hạm đội Nga dường như biến mất, nhưng họ để lộ vị trí của mình cho quân Nhật khi họ bật đèn pha lên, điều nghịch lý là các đèn pha này được bật lên để tìm kiếm tàu địch. Chiếc tàu chiến già nua Navarin đâm phải thủ lôi và phải dừng lại hoàn toàn, kết quả là nó bị 4 thủy lôi nữa bắn trúng và chìm. Trong thủy thủ đoàn gồm 622 người, chỉ có ba người sống sót, được quân Nhật vớt lên.

Chiến hạm Sisoy Veliki bị hư hại nặng do trúng thủy lôi vào mạn tàu và phải đánh chìm vào ngày hôm sau. Hai tàu bọc thép cũ, tàu Đô đốc Nakhimov và Vladimir Monomakh cũng bị hư hại nặng: chiếc thứ nhất bị thủy lôi đánh trúng vào mũi tàu, chiếc thứ hai đâm vào một tàu khu trục Nhật. Cả hai chiếc đều phải đánh chìm bởi thủy thủ đoàn vào sáng ngày hôm sau, chiếc tàu Đô đốc Nakhimoff ngoài khơi đảo Tsushima khi nước tràn vào tàu. Cuộc tấn công ban đêm làm hải quân Nga rất căng thẳng, vì họ đã mất hai tàu chiến và hai tuần dương hạm bọc thép, trong khi hải quân Nhật chỉ mất ba tàu phóng lôi.


Đầu hàng[sửa | sửa mã nguồn]


Trong đêm giao tranh xảy ra, Đô đốc Togo đã có thể cho bộ phận chính yếu của hạm đội mình, gồm các tàu bọc thép nghỉ ngơi. Tới 9:30 sáng, các tàu Nga đang tìm cách chạy về hướng bắc bị phát hiện. Tới 10:34, nhận thấy tình hình đã trở nên tuyệt vọng, Đô đốc Negobatov hạ lệnh cho hạm đội đầu hàng bằng cách trương lên lá cờ mang ký hiệu XGE, có nghĩa quốc tế là đầu hàng. Cho tới tận 10:53 quân Nhật mới chấp nhận đầu hàng. Tới đêm ngày 28 tháng 5, các tàu đơn lẻ của Nga còn tiếp tục bị tàu Nhật truy đuổi cho tới khi chúng bị đánh chìm hoặc bị bắt.



Theo tác giả Julian S. Corbett, với đại thắng này, Hải quân Nhật Bản đã làm nên một "thắng lợi quyết định và toàn diện nhất của thủy quân trong lịch sử".[1]


Tổn thất phía Nga[sửa | sửa mã nguồn]


Phía Nga mất 4.380 người chết, 5.917 người bị bắt sống, trong đó có hai đô đốc. Với thiệt hại nặng nề của Hải quân Nga, thảm họa Tsushima được xem là một trong những trận đánh hủy diệt duy nhất của thủy quân trong suốt bề dày lịch sử nhân loại[1].


Thiết giáp hạm

Các chiến hạm Hoàng thân Suvorov, Hoàng đế Alekxandr III, BorodinoOslyabya bị mất trong trận đánh ngày 27 tháng 5. Chiếc Navarin bị mất trong đêm ngày 27 rạng sáng ngày 28, trong khi chiếc Sissoi Veliky, Đô đốc NakhimovĐô đốc Ushakov hoặc bị đánh đắm hoặc bị chìm ngày tiếp theo. Bốn chiến hạm khác dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Nebogatov buộc phải đầu hàng và trở thành chiến lợi phẩm cho quân Nhật. Nhóm tàu này gồm một tàu loại mới, chiếc Orel, cùng với một thiết chiến hạm loại cũ, chiếc Hoàng đế Nikolai I và hai chiến hạm tuần duyên loại nhỏ Đô đốc Graf ApraxinĐô đốc Senyavin. Chiếc tàu tuần dương cỡ nhỏ Đô đốc Ushakov từ chối đầu hàng và bị các tàu tuần dương của Nhật đánh đắm.


Tuần dương hạm

Các ngày tiếp theo, các tuần dương hạm như Vladimir Monomakh, SvyetlanaDmitri Donskoy bị đánh chìm sau cuộc hải chiến. Tuần dương hạm Dmitri Donskoy chống lại sáu tuần dương hạm của Nhật và sống sót, nhưng do bị hư hại quá nặng nề, nó phải bị đánh đắm. Chiếc tàu Izumrud mắc cạn gần bờ biển Siberia. Ba tuần dương hạm bọc thép Aurora, Zhemchug, và Oleg chạy thoát về căn cứ hải quân của Mỹ ở Manila và bị cầm giữ ở đó. Chiếc chiến hạm cao tốc vũ trang hạng nhẹ, Almaz, cũng thoát được về Vladivostok.


Tàu khu trục và tàu phụ trợ

Năm tàu khu trục, gồm Buiny, Buistry, Bezupreshchny, GromkyBleshyashchy bị đánh đắm trong ngày 28 tháng 5, chiếc Byedovy cũng đầu hàng trong ngày. Chiếc Bodry bị nhà cầm quyền đương cục cầm giữ ở Thượng Hải. Hai tàu khu trục, GrosnyBravy chạy thoát được về Vladivostok.

Với các tàu phụ trợ, Kamchatka, UralRus bị đánh chìm trong ngày 27, chiếc Irtuish mắc cạn ngày 28, các chiếc KoreyaSvir bị giữ lại ở Thượng Hải và chiếc Anadyr chạy thoát về Madagascar. Các tàu tải thương Orel, Kostromo bị bắt nhưng được thả ra sau đó.


Tổn thất phía Nhật[sửa | sửa mã nguồn]


Phía Nhật chỉ mất 3 phóng lôi hạm số 34, 35 và 69, với 117 người chết và 500 người bị thương.



Chiến thắng của Hải quân Nhật Bản là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại 1 quốc gia châu Á đánh bại 1 Cường quốc châu Âu trong 1 cuộc chiến quy ước, do đó khi hay tin Nhật đánh bại Nga, hàng triệu người châu Á cũng vui sướng phát cuồng vì người Nhật đã rửa sạch cái nhục của dân da vàng bị người da trắng thống trị.[4]

Uy tín của Nga bị tổn thương nặng nề và nó là một đòn đau cho nhà Romanov. Gần như toàn bộ hạm đội Nga bị mất trong trận hải chiến eo biển Tsushima, trừ chiếc tàu cao tốc vũ trang hạng nhẹ Almaz (được xếp loại tuần dương hạm hạng nhì) và 2 tàu khu trục Grosny và Bravy là những tàu duy nhất trở về được tới cảng Vladivostok. Hạm đội Baltic coi như bị xóa sổ ra khỏi danh sách Hải quân Nga.

Thế lực của Nga ở Viễn Đông sau trận hải chiến này cũng kết thúc, nước Nhật trở thành cường quốc bá chủ Đông Á, Mãn Châu, Triều Tiên. Do những thảm bại này mà đế quốc Nga gần đứng trên bờ vực sụp đổ với cuộc Cách mạng năm 1905.



Các chiến hạm, tuần dương hạm, và các tàu các loại khác được chia thành từng đoàn, mỗi đoàn được chỉ huy bởi một sĩ quan cao cấp (như đô đốc). Trong trận hải chiến Tsushima, Đô đốc Togo là chỉ huy trưởng chiến hạm Mikasa (các đoàn khác được chỉ huy bởi Phó đô đốc, Chuẩn đô đốc, thiếu tướng hải quân, thuyền trưởng và sĩ quan chỉ huy khu trục hạm). Trong đội hình chiến đấu, kế tiếp theo Mikasa là các chiến hạm Shikishima, FujiAsahi, theo sau chúng là hai tuần dương hạm bọc thép.

Khi Đô đốc Togo hạ lệnh tiến hành bước ngoặt "tuần tự" sang cánh trái để giữ nguyên đội hình chiến đấu, tức là kỳ hạm Mikasa tiếp tục dẫn đầu (hiển nhiên là Đô đốc Togo muốn các lực lượng mạnh nhất của mình xung trận trước hết). Quay tàu tuần tự nghĩa là mỗi tàu sẽ tiến hành quay bánh lái tiếp theo tàu trước nó, trên thực tế mỗi tàu sẽ lần lượt đổi hướng tại cùng một điểm trên biển (điều này rất nguy hiểm, vì đối phương sẽ có cơ hội tập trung hỏa lực bắn vào khu vực đó). Đô đốc Togo cũng có thể ra lệnh cho các tàu "đồng loạt" bẻ lái, tức là các tàu sẽ đổi hướng cùng lúc và quay ngược lại, giống như cách hạm đội Pháp-Tây Ban Nha vận động trong trận Trafalgar. Cách này sẽ nhanh hơn, nhưng sẽ làm rối loạn đội hình chiến đấu, gây ra hỗn loạn khiến cho kế hoạch tác chiến phải thay đổi, đặt các tuần dương hạm lên tuyến đầu, và đó là điều mà Đô đốc Togo không mong muốn.




  1. ^ a ă â b c David C. Evans, Mark R. Peattie, Kaigun: strategy, tactics, and technology in the Imperial Japanese Navy, 1887-1941, trang 124

  2. ^ Koenig, William Epic Sea Battles p140

  3. ^ Koenig, William Epic Sea Battles p141

  4. ^ Lịch sử Thế giới - Nguyễn Hiến Lê



0 comments: