Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi – Wikipedia tiếng Việt


Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi[1], hay còn được gọi là: cuộc binh biến của Lê Văn Khôi, khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, sự biến thành Phiên An, là một cuộc nổi dậy chống lại triều đình xảy ra vào thời vua Minh Mạng. Sự kiện này diễn ra từ năm 1833 đến năm 1835 ở các tỉnh miền Nam Việt Nam, lãnh đạo của cuộc nổi dậy này là Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt.[1]





Vua Minh Mạng và tả quân Lê Văn Duyệt vốn có nhiều hiềm khích và tư thù. Minh Mạng tuy ghét nhưng không dám[2] làm gì Lê Văn Duyệt vì công lao và uy quyền quá lớn của ông với triều đình.[2]

Năm 1832, ngay sau khi Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng bèn tìm cách giành lại quyền lực của mình ở thành Gia Định. Vua bãi bỏ chế độ tổng trấn[3], tất cả đổi là tỉnh, trực thuộc vào triều đình Huế, cắt đặt quan lại vào thay. Trong những quan lại ấy có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát.[3]

Theo sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, thì: vốn là người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm bố chính ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước[3].

Trước khi đi, Bạch Xuân Nguyên đã được Minh Mạng bí mật dặn dò[4][5] về việc dựng nên một bản án chống lại Lê Văn Duyệt[5]. Ngay khi tới nơi, Bạch Xuân Nguyên làm một báo cáo dày nhiều tập[5] trong đó lên danh sách[4], tìm bằng chứng, rồi buộc Lê Văn Duyệt nhiều tội trong đó có các tội tham nhũng, lạm dụng quyền lực[6], đơn cử như việc Lê Văn Duyệt mở rộng thành Bát Quái, đóng thêm tàu được xem là một bằng chứng xác đáng về tội ác chống triều đình của Lê Văn Duyệt[4], nhưng vì ông đã chết nên cho người đánh mộ 100 roi[7][8] Đồng thời nhiều thuộc hạ của Lê Văn Duyệt cũng bị bắt, và 16 người nhà của Lê Văn Duyệt bị giết chết[7].

Những hành động này đã thúc đẩy các thuộc hạ của Lê Văn Duyệt, trong đó có con nuôi ông là Lê Văn Khôi, lo sợ cho số phận của mình, nên họ dấy binh nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Lê Văn Khôi[7][8].




Nổi dậy[sửa | sửa mã nguồn]


Nguyên trước Lê Văn Khôi có tên là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, do khởi binh làm loạn, bị quân triều đình đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, bèn xin ra thú. Lê Văn Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức phó vệ úy. Theo Quốc triều chính biên toát yếu, khi nổi dậy, Lê Văn Khôi giữ chức Tả quân Minh nghĩa Vệ úy.

Khi Bạch Xuân Nguyên tuyên bố phụng mật chỉ trị tội các thủ hạ của Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi bị bắt giam[3]. Ông bèn mưu với mấy người cùng cánh khởi binh chống triều đình.

Lê Văn Khôi ngầm liên hệ được với binh lính bên ngoài, vào đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (tức 5 tháng 7 năm 1833), ông cùng 27 lính hồi lương[9] đồng mưu đột nhập dinh giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên và thuộc hạ Nguyễn Trương Hiệu, người trực tiếp lo vụ án Lê Văn Duyệt, cùng thủ hạ. Lúc đó ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo Lê Văn Khôi nổi dậy[3].

Quân Lê Văn Khôi chiếm được Thành Bát Quái. Họ tổ chức một lễ thắp đuốc[7] tại mộ Lê Văn Duyệt và tại đây, Lê Văn Khôi tuyên bố bất phục triều đình, ủng hộ An Hòa, con trai của Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng tử Cảnh)[7]. Tối cùng ngày[7], quân nổi dậy giết[10] vị quan tổng đốc An-Biên mới nhận chức của triều đình là Nguyễn Văn Quế[7], người chịu trách nhiệm việc xây dựng lại quyền lực của triều đình trung ương ở vùng Gia Định[7], khi ông đang mang quân đến cứu Bạch Xuân Nguyên[10]. Án sát Phiên An là Nguyễn Chương Đạt sợ hãi mở cửa thành, đang đêm chạy trốn. Nhân đó, quân nổi dậy phá ngục thả lính hồi lương để gia tăng lực lượng.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn chép sự việc này hơi khác. Theo đó, khi Lê Văn Khôi cùng 60 người đến đánh Bạch Xuân Nguyên và Nguyễn Văn Quế. Xuân Nguyên thấy động lẻn trốn thoát, còn Quế cùng vài thủ hạ chống cự bị giết chết. Sau đó Lê Văn Khôi đuổi theo bắt được Bạch Xuân Nguyên, mang về nhà Lê Văn Duyệt để tế Duyệt. Sau đó Lê Văn Khôi mới giết nốt Xuân Nguyên[11]. Thành Gia Định thất thủ vào tay quân nổi dậy.

Quân triều đình thuộc các tỉnh còn lại trong Nam Kỳ Lục tỉnh chậm trễ ứng cứu khi thành Gia Định thất thủ. Theo Doãn Uẩn, án sát Vĩnh Long mới nhậm chức, thì đến ngày 27 tháng 5 năm Quý tỵ (14/7/1833), tổng đốc Long Tường là Lê Phúc Bảo mới dẫn quân cứu viện từ bản doanh là thành Vĩnh Long tiến đánh Gia Định, nhưng đến tỉnh Định Tường thì đóng quân lại không tiến. Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương trước đó từ An Giang thân cầm đại binh đi cứu viện, khi đến Định Tường cũng dừng quân không tiến.

Tới tháng 7 năm đó, cả Văn Quế và Xuân Nguyên đều bị triều đình truy đoạt chức tổng đốc An Biên và Bố chính Phiên An[12].


Đánh chiếm 6 tỉnh[sửa | sửa mã nguồn]


Nhiều quan lại do triều đình bổ nhiệm đều bị giết chết và hoặc chạy khỏi thành Gia Định[7]. Cuộc nổi dậy bất ngờ này đã không được triều đình dự phòng trước. Quân nổi dậy nhanh chóng tràn đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ và đánh chiếm. Trong vòng 3 ngày[7] lục tỉnh Nam Kỳ đã nằm trong tay lực lượng nổi dậy[7]. Lê Văn Khôi làm chủ thành Phiên An, nhiều tướng văn võ của triều đình đầu hàng. Ông đúc ấn tự xưng là đại nguyên soái, phong cho Thái Công Triều, Lê Đắc Lực làm trung quân; các tướng người Bắc Kỳ là Nguyễn Văn Đà[13], Nguyễn Văn Thông làm tiền quân; Dương Văn Nhã, Hoàng Nghĩa Thơ làm Tả quân; Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Tải làm Hữu quân; Võ Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Bột làm hậu quân; Lưu Tín, Trần Văn Tha làm thủy quân; Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Chân, Quách Ngọc Chấn làm Tượng quân.

Trong tháng 6 âm lịch năm đó, quân nổi dậy đánh chiếm Biên Hòa. Các quan lại nhà Nguyễn như Thự tuần phủ Biên Hòa Võ Quýnh, án sát Lê Văn Trác, lãnh binh Hồ Kim Truyền đều bỏ chạy.

Vài ngày sau, Võ Quýnh khôi phục lại được Biên Hòa. Minh Mạng lệnh cho tổng đốc Long Tường là Lê Phúc Bảo, tổng đốc An Hà là Lê Đại Cương đốc quân cùng đến Phiên An đánh Lê Văn Khôi. Nhưng khi quân triều đình chưa kịp điều thì quân nổi dậy dưới sự chỉ huy của Thái Công Triều lại đánh chiếm Định Tường, khiến cho Phúc Bảo, Đại Cương đều bị cách chức làm lính cùng với tuần phủ Định Tường là Tô Chấn và Án sát Ngô Bá Toán.

Tại tỉnh Định Tường, quân nhà Nguyễn của tổng đốc Phúc Bảo gặp quân nổi dậy Dương Văn Nhã dẫn 10 thuyền và mấy trăm quân đánh tới. Bảo sai Phó quản cơ Lê Tiêu dẫn thổ binh Lạc Hóa đánh nhau với quân nổi dậy ở Tra Giang (giáp giới 2 tỉnh Gia Định-Định Tường). Tiêu tử trận quân binh vỡ. Lê Thúc Bảo bèn trong đêm tối, tự bỏ mấy ngàn binh thuyền, chèo chiếc thuyền con chạy về Vĩnh Long (ngày 10 tháng 6 âm lịch về tới nơi). Lê Đại Cương đến Định Tường thấy vậy cũng lập tức lui binh, tự nói rằng về giữ địa hạt. Tuần phủ Định Tường Tô Trân bất đắc dĩ cũng đi Vĩnh Long, để trống tỉnh thành, quân nổi dậy thừa cơ tiến đóng Định Tường.

Lê Văn Khôi còn nhiều người trong gia đình ở ngoài Bắc, bị triều đình bắt giữ ở Cao Bằng.

Thái Công Triều mang quân từ Định Tường đến đánh chiếm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Ngày 14 tháng 6 âm lịch (tức 30/7/1833), quân nổi dậy theo Tiền Giang vượt Vĩnh Long tiến đánh Lê Đại Cương ở xứ Cái Tàu. Doãn Uẩn và phó lãnh binh An Giang là Võ Văn Vĩ đem quân cứu viện Lê Đại Cương. Quân nhà Nguyễn thua tan tác, Võ Văn Vĩ tử trận, Đại Cương chạy trốn về đất Chế Lăng (vùng đất Cao Miên đương thời nằm trong lòng Nam Kỳ), Doãn Uẩn lui về Vĩnh Long. Sau đó cùng ngày, quân nổi dậy với hơn bốn mươi chiến thuyền tiến đánh Vĩnh Long. Quân binh nhà Nguyễn trong thành chống giữ không nổi. Tổng đốc, bố chính bỏ thành chạy trốn, thành Vĩnh Long thất thủ. Một hai ngày sau thành Châu Đốc và thành Hà Tiên cũng chung số phận với Vĩnh Long. Quân nổi dậy chia nhau đi giữ các huyện và đặt quan chức cai trị tại đó. Tháng 7 năm 1833, quân nổi dậy tấn công Biên Hòa nhưng bị đánh lui. Sau đó, Lê Văn Khôi tiếp tục mở cuộc tấn công lần nữa và chiếm được thành, giết tướng nhà Nguyễn là Tôn Thất Gia. Cùng lúc, anh vợ Lê Văn Khôi là Nông Văn Vân làm tri châu Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang cũng nổi dậy, tự xưng là Thiết chế thượng tướng quân.


Thất thế[sửa | sửa mã nguồn]


Vua Minh Mạng liền cử Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng và Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Khôi.[3]

Ngay trong tháng 8 năm 1833, quân triều đình đã phản công và bắt đầu lấy lại các tỉnh Nam Bộ. Tướng Ngô Bá Toán chuộc tội, lấy lại được Định Tường, được phong chức Bố Chính Sứ.

Ngày 17 tháng 7 âm lịch (31/8/1833), Án sát Vĩnh Long là Doãn Uẩn chiếm lại được thành Vĩnh Long. Sau đó Án sát An Giang là Bùi Văn Lý cũng chiếm lại An Giang và Hà Tiên. Trương Minh Giảng và Hoàng Đăng Thuận lấy lại được Biên Hòa.

Địa chủ, phú hào các nơi dao động, không dám ủng hộ Lê Văn Khôi nữa. Tiếp đó, một tướng giỏi của ông là Thái Công Triều cũng đầu hàng triều đình[3], khiến lực lượng nổi dậy suy yếu nhanh chóng.[3]. Triều mang quân về đánh Khôi ở Gia Định.


Cố thủ và thất bại[sửa | sửa mã nguồn]


Lê Văn Khôi yếu thế, bèn nhờ giáo sĩ phương Tây đi sang cầu viện Xiêm La. Xiêm La nhân muốn lấn chiếm Đại Nam bèn nhận lời giúp.

Lê Văn Khôi còn mời một vị giáo sĩ người Pháp tên Joseph Marchand (Cố đạo có tên tiếng Việt là Du) - Linh mục Hội thừa sai Paris đến và ở trong thành. Việc mời vị giáo sĩ này và việc ủng hộ con của hoàng tử Cảnh (đã cải đạo sang Cơ đốc giáo trước đó) là An Hòa là nhằm có được sự ủng hộ của những người Công giáo địa phương[8][14]. Lê Văn Khôi còn kêu gọi những người theo Công giáo vào thành và sống dưới sự bảo trợ của ông[7]. Những giáo sĩ người Việt giữ vai trò lãnh đạo lực lượng Công giáo địa phương đánh lại quân triều đình và liên lạc với bên ngoài khi thành bị vây khốn.[15]

Năm 1834, quân triều đình đánh bại quân Xiêm, chiếm lại toàn bộ các tỉnh miền nam và chuyển sang vây quân nổi dậy trong thành Bát Quái. Lê Văn Khôi bị bệnh mất ở trong thành Phiên An khi thành đang bị vây ngặt. Con trai ông là Lê Văn Cù mới 8 tuổi[16] được cử lên thay.

Dù Lê Văn Khôi đã chết, quân nổi dậy vẫn giữ được thành trước quân triều đình cho tới tháng 9 năm 1835[7]. Lúc bấy giờ, hiện trạng rất nguy ngập: Thành bị bao vây, dịch tả hoành hành, súng đạn hư hỏng vơi cạn dần, lương thực tuy nhiều nhưng bị ẩm mốc, tinh thần và sức lực quân dân đều suy kiệt và ly tán... Cho nên đến ngày 16 tháng 7 năm Ất Mùi (tức 8 tháng 9 năm 1835), khi quân triều đình chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành, quân nổi dậy chống cự không nổi, bị thua trận. Quân nổi dậy cả thảy 1.831 người đều bị giết chết và chôn chung một chỗ, sau này gọi là Mả Ngụy hay Mả Biền Tru[17], nay thuộc khu vực Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.



Joseph Marchand bị xử lăng trì

Sáu người bị kết tội "chủ mưu" bị đóng cũi giải về Huế và nhận lãnh án lăng trì, trong đó có con trai của Lê Văn Khôi mới 8 tuổi, một linh mục người Pháp là Marchand, một người Hoa là Mạch Tấn Giai[18]

Theo GS. Nguyễn Phan Quang thì các "tội nhân" đó là: Nguyễn Văn Cù (con Khôi), giáo sĩ Joseph Marchand (Cố Du), Mạch Tấn Giai (gốc người Triều Châu), Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Trắm, Nguyễn Văn Bột.[19].

Sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy, triều thần Phan Bá Đạt dâng sớ xin kể tội Lê Văn Duyệt[2], vua Minh Mạng đồng ý và nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh ra án nghị Lê Văn Duyệt có bảy tội phải chém[2], hai tội phải thắt cổ[2], một tội phải sung quân[2], nhưng vì ông đã chết nên chỉ cho người tước sắc phong, phá và xiềng xích mồ mả.[2][10] Mãi cho tới đời vua Thiệu Trị án mới được dỡ bỏ.[2]

Cuộc nổi dậy này đã khiến vua Minh Mạng phá hủy tòa thành kiên cố cũ là Thành Bát Quái và cho xây tòa thành nhỏ hơn, ít kiên cố hơn là Thành Gia Định (hay Phượng Thành, Phụng Thành).[20][21][22][23]











Và hiện nay các sử gia vẫn còn tranh cãi về nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa này là do việc triều đình làm nhục Lê Văn Duyệt hay tình trạng quan chức địa phương mất quyền lực...[8]





  1. ^ a ă Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ 19, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr. 229-256.

  2. ^ a ă â b c d đ e Mộ tả quân Lê Văn Duyệt hiện ở đâu?

  3. ^ a ă â b c d đ e Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược, Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương III. Thánh Tổ (Phần 2).

  4. ^ a ă â Choi, tr. 87.

  5. ^ a ă â Chapuis, tr. 191.

  6. ^ McLeod, tr. 29

  7. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k McLeod, tr. 30.

  8. ^ a ă â b Buttinger, pp. 322–324.

  9. ^ Người phạm tội phải đi đầy khỏi quê quán làm lính.

  10. ^ a ă â Bi kịch của tả quân Lê Văn Duyệt triều Nguyễn.

  11. ^ Cao Xuân Dục (chủ biên), Đại Nam chính biên liệt truyện, Nhà xuất bản. Văn học, 2004, tr 1017-1018.

  12. ^ Quốc triều chính biên toát yếu, tr 213.

  13. ^ Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 1018) không ghi ông Đà mà ghi là Nguyễn Văn Trắm.

  14. ^ McLeod, p. 14.

  15. ^ McLeod, p. 31.

  16. ^ Nguyễn Q. Thắng (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam), ghi là Lê Văn Câu, Sách Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên, ghi Lê Văn Cú. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, ghi 7 tuổi.

  17. ^ Mả Biền Tru: tru diệt ngay, không cần xét xử. Các sách ghi số người bị giết không thống nhất: 1.831 người (Trần Trọng Kim-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế), 1.737 người (nhóm tác giả Hỏi đáp lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản. Trẻ, 2007), 1.284 người (Nguyễn Phan Quang căn cứ vào những bản mật tấu)...Phía quân triều bị thương bị giết khoảng 700 (Đại Nam chính biên liệt truyện). Theo Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (phần lịch sử) thì Mả Ngụy ở gần Mô súng, khoảng gần Ngã Sáu Công trường Dân chủ (Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình cùng chủ biên, xuất bản năm 1987). Xem thêm bài viết về đồng Mả Ngụy: [1] và [2]

  18. ^ Theo A. Schneiner - Revue Indochinoise - (số 7 - 8 năm 1915, dẫn lại từ Việt Nam sử lược của Trần trọng Kim.

  19. ^ Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam (1427-1858, quyển 2, tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 1977, tr. 179. Thế nhưng, sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Nhà xuất bản. Văn Học, 2004, tr. 1038) lại ghi 6 người ấy là: nghịch Trắm (Nguyễn Văn Trắm), nghịch Minh (Lê Bá Minh), nghịch Dự (Đỗ Văn Dự), nghịch Tín (Lưu Tín), nghịch Do (chắc là Du, tức giáo sĩ Marchand), nghịch Viên (chưa tra được).

  20. ^ Địa danh Sài Gòn - TP.HCM qua các thời kỳ của tác giả Vân Trinh

  21. ^ Mantienne, p. 526.

  22. ^ Nguyen, p. 178.

  23. ^ Marr, p. 27.

  24. ^ a ă â Địa chí văn hóa TP. HCM, phần lịch sử, Nhà xuất bản. TP. HCM, 1987, tr. 211, tr. 243 và 432.

  25. ^ Theo Sài Gòn - TP. HCM do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên (Nhà xuất bản Trẻ, 2006, tr. 100)


Thư mục tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]


  • Nguyễn Phan Quang (1981), Tìm hiểu mối quan hệ giữa hai cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi và Nông Văn Vân (1833-1835) – Study on the relations between two uprisings of Le Van Khoi and of Nong Van Van (1833-1835). Nghiên cứu Lịch sử, Số 1(196), tr 69-76.

  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Cao Xuân Dục (chủ biên) (1998). Quốc triều chính biên Toát yếu. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 

  • Choi, Byung Wook (2004). Southern Vietnam Under the Reign of Minh Mạng (1820-1841): Central Policies and Local Response. SEAP Publications. ISBN 0877271380. 

  • Chapuis, Oscar (1995). A History of Vietnam: From Hong Bang to Tu Duc. Greenwood Publishing Group. ISBN 0313296227. 

  • Buttinger, Joseph (1958). The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam. Praeger. 

  • Cady, John F. (1964). Southeast Asia: Its Historical Development. McGraw Hill. 

  • Chapuis, Oscar (2000). The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai. Greenwood Press. ISBN 0-313-31170-6. 

  • Quốc sử quán triều Nguyễn (2001). [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]] . Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.  .

  • Hall, D. G. E. (1981). A History of South-east Asia. Macmillan. ISBN 0333241630. 

  • Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. London: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4. 

  • Marr, David G. (1970). Vietnamese anticolonialism, 1885–1925. Berkeley: University of California. ISBN 0-520-01813-3. 

  • Nguyen, Thanh Thi (1992). The French conquest of Cochinchina, 1858–1862. University Microfilms International. 

  • Mantienne, Frédéric (tháng 10 năm 2003). “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyen”. Journal of Southeast Asian Studies 34 (3): pp. 519–534. doi:10.1017/S0022463403000468. 

  • McLeod, Mark W. (1991). The Vietnamese response to French intervention, 1862–1874. Praeger. ISBN 0-275-93652-0. 

0 comments: